GÓP PHẦN NHẬN DIỆN THƠ TRẺ NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ.
Dẫu còn nhiều khen - chê khác nhau nhưng thiết nghĩ Vi Thùy Linh với tập thơ mang tên cô- “Linh”- vẫn nên được xem là một dấu mốc của thơ Việt những năm đầu thế kỷ. Bởi lẽ bắt đầu từ Vi Thùy Linh, người theo dõi chuyển động của thơ Việt đương đại không thể không ghi nhận một thực thể “đang quẫy đạp rất mạnh” ( chữ mượn của Nguyễn Thanh Sơn) có tên là Thơ Trẻ. Ồn ào, quyết liệt, thậm chí còn ngang ngạnh, bướng bỉnh, những Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Phan Bá Thọ, nhóm Mở Miệng… hay gần đây hơn là một loạt những cây bút nữ ở độ tuổi đôi mươi: Thanh Xuân, Khương Hà Bùi, Phương Lan, Lynh Bacardi, Phương Phương, Trương Quế Chi… ít nhất đã làm được một điều: phá vỡ bầu không khí bình lặng và nhợt nhạt của thi đàn sau một khoảng thời gian khá dài.
Liệu đã có thể quả quyết: một “làn sóng thơ trẻ” đang trỗi dậy trong nền thi ca đương đại?
Cụm từ “làn sóng thơ trẻ” đã hàm ẩn trong đó sự kỳ vọng về một sức sống mới, một nguồn năng lượng mới. Và đó là một sự kỳ vọng có cơ sở. Vì diện mạo của một nền văn học mới khó có thể hình thành nếu không có sự dấn thân của những cây bút trẻ. Nhưng đây chẳng phải là lần đầu tiên niềm kỳ vọng đó được nhen nhóm. Thơ ca những năm Đổi Mới đã từng ghi nhận những gương mặt trẻ gây được ấn tượng mạnh. Sinh khí của thơ trẻ thời kỳ Đổi Mới đã có lúc khiến người ta có thể đưa ra một nhận định lạc quan: “Thơ Việt nam đang chờ phiên đổi gác”1. Công cuộc chuyển giao đó, tuy thế, sau đến hơn mưòi năm, dường như vẫn bị đình trệ. Khoảng mười năm đình trệ ấy, khi mà những nhà thơ trẻ được kỳ vọng của thời kỳ Đổi Mới: Đinh Thu Hiền, Dạ Thảo Phương, Chinh Lê, Lê Thu Thủy, và cả Nguyễn Quyến… phần lớn rơi vào im lặng ( cho dù vẫn biết sự im lặng đó chưa hẳn đã là dấu hiệu chấm hết), đã có một thế hệ khác nhập cuộc trong bầu không khí hậu Đổi Mới, với nếp cảm, nếp nghĩ ít nhiều cũng đã đổi khác dưới tác động của âm hưởng thời đại, không gian sống, nhịp điệu sống đang biến chuyển mạnh. Diện mạo của thơ trẻ thời kỳ hậu Đổi Mới bước đầu đã định hình như thế nào, đã phá vỡ và có thể mở ra điều gì? Bài viết này là một nỗ lực nhằm nhận diện một vài dấu hiệu đáng chú ý của lớp nhà thơ mới này. Trong đó, khi chọn dẫn chứng, người viết xin dành sự ưu tiên để nói về những cây bút thuộc thế hệ 8X, những người mới chỉ dấn những bước đầu tiên trên con đường thơ ca nhưng thiết nghĩ, đã có một thái độ lựa chọn hướng đi đáng để chúng ta suy nghĩ.
1. Không gian tồn tại của thơ trẻ hiện nay.
Các tác giả trẻ trước đây phần nhiều thu hút sự chú ý của dư luận bắt đầu từ những cuộc thi thơ trên những tờ báo/tạp chí chuyên về văn nghệ hoặc dành cho giới trẻ. Song một số cây bút được xem là giàu năng lượng sáng tạo, có khuynh hướng thể nghiệm sự đột phá trong hình thức biểu hiện gần đây lại không tìm đến những cuộc thi văn học chính thống như vậy để khẳng định uy tín. Thay vào đó, họ lựa chọn một không gian khác, hoàn toàn chưa có trước đó, để giới thiệu những gì mình viết. Những trang văn nghệ điện tử như Tiền vệ, Evăn, Tạp chí Thơ… là những không gian được lựa chọn bởi lẽ chúng thoả mãn được cái nhu cầu bức xúc nhất ở những cây bút này: khai phóng sự tự do sáng tạo.
Nhưng không gian liên mạng cũng ẩn chứa đầy thách thức. Thách thức không phải chỉ ở chỗ phần lớn những trang văn nghệ điện tử nói trên vẫn còn bị xem là bộ phận “bàng thống”. Sau xa hơn, thách thức nằm ở chính tính chất lưỡng trị của không gian mạng: nó là con đường đưa tác phẩm của nhà thơ xuất hiện trước công chúng một cách nhanh nhất và hầu như không vấp phải rào cản kiểm duyệt theo những tiêu chí áp đặt nhưng đồng thời tác phẩm cũng có thể, rất nhanh, rơi vào vùng hư vô của không gian ảo này. Bài thơ rất dễ bị lãng quên như thể nó chưa hề từng tồn tại trong cái thế giới ngồn ngộn thông tin. Điều này hẳn ít nhiều cũng tác động đến tâm thức sáng tạo của người cầm bút. Bài thơ muốn đọng lại trong ấn tượng người đọc cần thiết phải có yếu tố lạ hoá, gây sốc, nhất là ở hình thức biểu hiện, bởi đấy là phương diện đầu tiên tác động vào tri giác của độc giả. Hoặc, với một trải nghiệm khác, chọn nơi cư ngụ cho bài thơ trên không gian mạng cũng có thể là đã chọn cho nó một đời sống phù du. Điều ấy, đến lượt nó, là một trong những tác nhân khiến người làm thơ rũ bỏ ảo tưởng về những tính chất nghiêm trọng, những giá trị vĩnh cửu được gán cho thơ ca. Bài thơ, bởi vậy, có thể mang một diện mạo suồng sã đến bất cần.
Không gian tồn tại của thơ còn là môi trường được tạo nên bởi mối quan hệ giữa tác giả - tác phẩm - người đọc. Tưởng như xuất hiện trên không gian mạng, phạm vi công chúng của thơ trẻ hôm nay hẳn sẽ được mở rộng. Nhưng thực tế không phải vậy. Thơ của họ, từ Vi Thùy Linh đến những cây bút nữ xuất hiện gần đây, đều vấp phải những phản ứng gay gắt ngay ở những độc giả cùng thời với mình. Đây là điểm tương đối khác biệt so với lớp nhà thơ trẻ xuất hiện trước đó. Có thể thích hoặc không thích, nhưng những độc giả cùng thời với Nguyễn Quyến, Dạ Thảo Phương, Lê Thu Thủy, Đinh Thu Hiền… không tỏ rõ thái độ “dị ứng” với sáng tác của những cây bút này. Ở phương diện này, những nhà thơ trẻ thời hậu Đổi Mới kém may mắn hơn chăng? Có lẽ cũng không hẳn như thế. Bởi lẽ các nhà thơ trẻ hôm nay đã chọn cho mình một tư thế không dễ gây thiện cảm ngay: tư thế khiêu khích. Họ có thể bình thản trả lời trước những phản ứng gay gắt đối với sáng tác của mình rằng: “Thơ tôi không dành cho bạn”2.
2. Tôi khiêu khích tức là tôi tồn tại.
Khiêu khích là cách thức buộc người khác phải chú ý đến sự hiện diện của mình. Kẻ khiêu khích là kẻ cố tình phạm vào những chuẩn mực đã được đóng khuôn, được số đông chấp nhận, với ý thức hạ bệ chúng. Đó là kẻ dám phô diễn cái khác trong suy nghĩ và hành động của mình để thách thức những chuẩn mực ấy. Hành động khiêu khích một hệ thống giá trị bao giờ cũng hàm ẩn thông điệp phủ định uy quyền tạo nên hệ thống giá trị đó. Điều này lý giải vì sao phản ứng xã hội đối với kẻ gây hấn, thách thức uy tín và những chuẩn mực của nó thường rất nặng nề, quyết liệt.
Quan sát thơ trẻ hậu Đổi Mới, có thể thấy, tâm thế khiêu khích dẫu vẫn chưa phải là biểu hiện ở quy mô rộng song cũng không hẳn là một hiện tượng quá cá biệt chỉ thấy ở một, hai cá nhân. Khi tâm thế khiêu khích không còn dừng lại ở phạm vi đơn lẻ nữa có nghĩa là hệ thống giá trị cũ không còn bảo vệ được uy tín của nó nữa, xung đột giữa những hệ thống giá trị đã đến chỗ khó lòng hoà giải. Trong nghệ thuật, điều đó cũng báo hiệu sự xuất hiện của một trào lưu mới, khuynh hướng thẩm mỹ mới. Những thi sĩ đấu tranh cho quyền tồn tại của thơ mới 32-45 đã bắt đầu với tâm thế khiêu khích như thế. Và Thanh Tâm Tuyền khi muốn đoạn tuyệt với truyền thống văn nghệ tiền chiến cũng tuyên ngôn bằng gọng gây hấn, thách thức.
Thái độ khiêu khích của thơ trẻ hiện nay có thể thấy ngay trong hành động phô diễn cái tôi của mình. Thơ trẻ hậu Đổi Mới muốn giải phóng mình khỏi những kiềm toả, đè nén, những biên giới đã được hạn định, chẳng ngại ngần gì khi thăm dò những vùng cấm, để tìm bản ngã. Tình dục là một trong những lãnh địa mà nhiều cây bút trẻ hăm hở đột phá để biểu hiện mình. Có lẽ chưa bao giờ ngôn ngữ tính dục lại đậm đặc như trong thơ trẻ hậu Đổi Mới. Nói đến tính dục trước hết là nói đến những thèm muốn rất nhân bản, rất trần tục của con người nên đâu có gì mà phải ngại ngần khi nói to lên điều này:
Khoả thân trong chăn
Thèm chồng. Thèm có chồng ở bên. Chỉ cần anh gối lên đùi
Mình ôm lấy anh ôm mình
Biết sự bình yên của mặt đất
(Chân dung – Vi Thùy Linh)
Tôi muốn hét vang lên cho vỡ toang bao lâu nén ép vọng cuồng chờ
Xiết lấy mùa thơm trong tay mình rát bỏng
Giọt Hạnh Phúc ứa trên đoá môi tràn trề cơn rúng động
Bầy ong cánh lụa tơ trời rì rầm lời mật ươm
Và gió vương vãi lòng tôi giữa nhuỵ thở xoè bung những hạt sảng mê hương
Tí tách bật lên mùa nứt vỏ sinh sôi của cơn thác lũ phôi mầm hoan hỉ hát
Tôi ưỡn cong mình nhận lấy Người tràn xuyên qua tôi lấp đầy mùa cuồng khấu khát
Mùa viên mãn
Mông mênh thảo nguyên ngợp ngời cỏ non và ánh sáng
(Mùa căng – Phương Lan)
Và cũng không có lý do gì phải rụt rè, che giấu, thơ trẻ tháo phăng tấm mặt nạ uyển ngữ để ngôn từ tính dục hiện lên trần trụi, thô tháp nhất, bất chấp mọi kiêng kỵ. Nhóm Mở Miệng là nhân tố tích cực nhất tiến hành cuộc khởi loạn của ngôn từ tính dục trong thơ hiện nay. Đối tượng tấn công của cuộc khởi loạn này là những quy phạm ngôn từ mà đứng sau chúng là cả một hệ thống quyền uy. Hệ thống quyền uy này cố thủ ở những vùng nhạy cảm nhất trong ý thức của cộng đồng: truyền thống, đạo đức, thẩm mỹ. Vì thế, hoàn toàn có thể hiểu vì sao người đọc dễ cảm thấy bị thơ trẻ xúc phạm khi thứ ngôn từ táo tợn, liều lĩnh đó tấn công vào những giá trị đã được cố kết trong tâm thức của mình.
Tư thế khiêu khích, tất nhiên, quy định giọng điệu chủ đạo của thơ trẻ hiện nay: giọng khiêu khích. Không thể khiêu khích đối phương với một giọng thâm trầm, nhỏ nhẹ mà buộc phải nói lớn, nói bằng giọng ồn ào, gây sự để khuấy động trạng thái im lìm của thi đàn và thu hút người khác chú ý đến mình. Một biểu hiện của giọng nói lớn này đó là khẩu khí tuyên ngôn. Có thể cảm nhận được khẩu khí tuyên ngôn này ở hầu hết các nhà thơ trẻ:
Tôi không thèm trò đùa cảm giác để dối lòng người dối lòng mình
Tôi không thích nổi loạn đơn độc hay khoác lên bộ mặt giả tạo để an thân
…
Tôi quả là bất thường khi không a dua vào những nói, cười, ăn, ngủ, chơi như mệnh lệnh vô hình mà guồng máy đã tạo ra những người chết- mà- sống đó
(Vãn hồi 3 – Thanh Xuân)
Và em,
Chưa bao giờ tròn trịa
Khi trái đất chỉ mang hình ê líp
Chưa bao giờ chỉn chu
Khi loay hoay bứt phá vỏ bọc
Chưa bao giờ hoàn mỹ
Khi ai cũng tìm cách thoả mãn chính mình
Em
chỉ là em!
(Em – Liêu Phúc Minh)
Nói bằng giọng khiêu khích, với khẩu khí tuyên ngôn, thơ trẻ hiện nay dường như vẫn còn nặng về phô trương. Thơ trẻ còn thiên “nói”, thiên “diễn” nhiều hơn là “nghĩ”, “trầm tư”; sôi nổi, quyết liệt nhưng còn thiếu một độ lắng đọng, đằm sâu; gây náo động mạnh hơn là có một ý thức hướng nội thực sự. Cái xu hướng muốn nói lớn, như phân tích của Lã Nguyên cho thấy3, là đặc điểm có tính chất truyền thống của văn học Việt Nam, và thơ trẻ hậu Đổi Mới, khách quan mà nói, vẫn đang khuếch trương cái đặc điểm ấy. Song ngay ở sự ồn ào này, vẫn cần ghi nhận ở thơ trẻ hiện nay một thái độ không chấp nhận khoác lên mình bộ đồng phục tinh thần, dám sống với cái khác, cái lệch chuẩn của chính mình. Niềm tin vào giá trị do chính cá nhân mình xác lập nên là yếu tố rất quan trọng để mỗi cây bút hình thành được cá tính sáng tạo riêng.
3. Phá vỡ không khí vô trùng của mỹ học lãng mạn.
Mỹ học lãng mạn là mỹ học của cảm xúc, cảm giác. Bài thơ, theo đó, là kết quả của cảm xúc khi nó đã dâng đầy, tràn ứ. Viết là cách để con người giãi bày, tâm tình, tự sự về cái thế giới cảm xúc dạt dào ấy. Mỹ học lãng mạn cũng có thể gọi là một thứ mỹ học vô trùng: nó thiên về một giọng điệu cảm thương, ngọt ngào, say đắm, một chất nhạc hài hoà, êm ái, gợi những hình ảnh thi vị, bay bổng. Trong thơ Việt nam, từ trường của mỹ học lãng mạn hãy còn rất mạnh. Từ Thơ mới 32-45 đến cái gọi là “khuynh hướng lãng mạn cách mạng” và thậm chí, ở vô số những bài thơ trên báo chí chính thống hay trong các tuyển tập hiện nay thực chất đều có thể đồng quy về một mẫu số.
Mỹ học lãng mạn hãy còn đeo đẳng nhiều cây bút trẻ hậu Đổi Mới. Thơ Vi Thùy Linh, dẫu được xem là táo bạo, đột phá, thực sự vẫn là sự nối dài của ý thức lãng mạn. Đó vẫn là thứ thơ giãi bày, lênh láng cảm xúc và độ mãnh liệt của cảm xúc vẫn được xem là điểm mạnh của tác giả này. Và không chỉ Vi Thùy Linh, vẫn còn đó chất tự tình mang âm hưởng lãng mạn trong thơ của nhiều cây bút trẻ khác, nhất là khi họ viết về tình yêu.
Nhưng có một xu hướng khác, ngày càng trở nên rõ rệt hơn, cố gắng tìm cách chấm dứt, đoạn tuyệt với sự ám ảnh dai dẳng của thẩm mỹ lãng mạn. Để kháng cự lại lực hút của nó, nhiều cây bút trẻ đã tìm đến chất khôi hài, giễu nhại. Phương Phương, một tác giả tuy xuất hiện lặng lẽ nhưng đáng được chú ý, đã xoá mờ âm hưởng lãng mạn vốn rất dễ chi phối người ta khi viết về tình yêu bằng chất uy mua khá thông minh:
Vụng về
Em làm cả buổi chiều bên anh vữa ra
Món trứng rán hỏng
Nơi căn phòng đặt sẵn
Em ga tô quấn chăn
Anh sôi sục chai Coca 120 lit
Nhưng ga tô không uống với Coca
(Lúc này chúng mình đều bánh đa ngấm nước)
mệt mỏi phết lên anh
màu bánh nướng lạp xưởng môi những nhếch mép xá xíu
bơ phờ trát lên em trắng bủng bánh dẻo
bẹp dúm một góc chiều
Trăng tròn như bánh phống tôn chưa rán
Trên đường về nhà
Em luẩn quẩn bước vào hầm ngẫm nghĩ
Đáng lẽ có thể tráng chiều nay thành món bánh sữa khổng lồ
Ăn cho cả mấy chiều sau
Nhưng đã hết phiên em vào bếp
(Thực đơn chiều)
Triệt để hơn, Thanh Xuân và Lynh Bacardi chối bỏ âm hưởng lãng mạn trong thơ mình bằng cách loại trừ những rung động dịu nhẹ, cảm thương trong thơ mình. Cũng cố gắng không tự ăn bóng cái tôi của mình, họ hướng đến cái bụi bặm, bề bộn, thậm chí là cái nhớp nháp, nhầy nhụa của đời thường. Lynh Bacardi có thể làm những độc giả vốn quen với không khí vô trùng cuả mỹ học lãng mạn “ngộp thở” bởi những chất rác rưởi, mùi ôi thiu, tanh tưởi, mà cô đưa vào thơ mình. Xin trích dẫn một đoạn thơ của cô:
trên sạp thịt chợ trời.
những con ruồi bu quắp vào nhau
con mắt mụ ăn mày mở lớn đến nỗi
nó nhìn thấu bộ phận sinh dục trên
cây tăm thúi bẩn
xe chở rác cút kít
chuyến phà muộn chạy đua với nước mưa
mụ trùm miếng nylon lên đầu
thở ra để giảm mùi ứ đọng
có tiếng mèo mới đẻ
thằng nhãi ngậm cây ráy tai dài ngoẵng
lấm lem sình trong con mắt láu cá
nó khoác áo mưa
loại ba ngàn
đặt vào mụ một đồng âm phủ
(Nhìn cho đã bằng con mắt chột)
Xoá tan những cảm giác thi vị thông thường, chủ trương đưa rác vào thơ, Lynh Bacardi và những cây bút theo khuynh hướng “Thơ rác” hiện nay muốn vẽ những bức tranh cực thực đến buồn nôn về cuộc sống. Thơ không phải là sự né tránh thực tại; sẽ là hời hợt, dễ dãi và thậm chí giả tạo nếu thơ chỉ muốn là những gì nên thơ, trang nhã. Thanh Xuân lại cố gắng thể nghiệm một lối viết biếm hoạ - đồng hiện phơi bày những cái kệch cỡm, những tình thế lố bịch của đời sống:
Bắt đầu tấu khúc hay tập tễnh ễnh ương
Dịu dàng và nhu nhược như thiếu nữ hàng băm chưa chồng
Tư tưởng chủ đạo của nền văn minh triệt để Phương Tây là…
Sa thải đạo diễn Mưu và Thập diện… tẩy chay
Hắn cười khẩy vào giữa đùi Nàng đã được tẩm Channel No.5
(Ta cứ huếch hoác thì đã sao nào?)
Khi ngày nào hắn cũng tới thư- viện- nhà- nước nghiềm ngẫm tại sao bà Hồ Xuân Hương không trần truồng Eureka mỗi khi làm thơ
Nàng thở dốc gấp gáp oằn người mồ hôi như tắm rên rỉ
Cứu em anh ơi hết chịu nổi rồi chỗ kia kìa đúng rồi lọ xịt Ventolin đó
Nàng đang lên cơn suyễn
Ha ha, thế mà hắn cứ tưởng bở
(Hệ thống)
Có thể thích hoặc không thích nhưng ý thức phản trữ tình, phản lãng mạn một cách dứt khoát của Lynh Bacardi và Thanh Xuân là hiện tượng hiếm thấy ở thơ nữ Việt Nam. Nhìn rộng hơn, qua thái độ phủ định quan niệm về chất thơ quen thuộc, nhiều cây bút trẻ hậu Đổi Mới dường như đang tìm cho mình một thứ mỹ học theo tinh thần “Hoa ác” (tên tập thơ của Baudelaire) bắt nguồn từ chính đời sống đương đại đa tạp, bộn bề.
Nỗ lực rũ bỏ âm hưởng lãng mạn trong thơ trẻ hậu Đổi Mới còn biểu hiện ở ý thức phản lại điệu du dương, hài hoà của lời thơ, để cho khẩu ngữ xâm lăng ồ ạt vào lãnh địa của thơ. Giọng điệu thơ trở nên suồng sã, bỗ bã; lời thơ bị phân mảnh, đứt đoạn, trúc trắc, khấp khểnh một cách chủ ý. Bởi vậy, đọc thơ trẻ hôm nay, có người đã than thở về sự thiếu vắng của nhạc điệu4. Có thể hiểu lời than ấy là một niềm tiếc nuối cho một kiểu nhạc tính trong thơ phổ biến trước đây - mượt mà, êm ái, dễ nghe, dễ ngâm – nay đã bị giải trừ. Nhưng nếu nghĩ thơ trẻ hôm nay đã đi đến chỗ triệt tiêu hoàn toàn nhạc điệu thì chưa hẳn. Thay cho những giai điệu ngân nga, thơ hôm nay lại chú trọng tạo nhịp - một thứ nhịp điệu gần gũi với chính nhịp điệu của đời sống hiện đại vốn xô bồ. Nếu nhạc tính trong thơ lãng mạn chịu sự chi phối của âm nhạc cổ điển, chú trọng sự hài hòa thì trong thơ đương đại, có thể nghĩ đến sự xâm thực của âm hưởng rock, hip hop…- những loại hình âm nhạc đại chúng in đậm hơi thở của đời sống thường nhật - vào trong giọng điệu và nhịp điệu lời thơ.
4. Viết với cây búa của Nietzsche.
Có thể nói đây là nét khác biệt cốt yếu nhất giữa những cây bút trẻ gây chú ý hiện nay với phần đông những người làm thơ khác. Đối với bộ phận chiếm số nhiều ấy, họ viết mà hầu như không phải băn khoăn, hồ nghi về những yếu tính của thơ. Họ có thể biến đổi khuôn khổ, hình hài của câu thơ, bài thơ để thoả mãn những bức xúc nội tâm nhưng chưa bao giờ thấy cần thiết phải đi đến chỗ phủ định những ý niệm thơ đã có. Trong khi đó, những cây bút trẻ tiền phong hiện nay không có sự yên tâm như thế khi cầm bút. Ở họ hình thành một thái độ bất tín nhiệm đối với những ý niệm, định nghĩa, chuẩn mực quen thuộc, phổ biến về thơ. Nỗ lực của họ không chỉ dừng lại ở việc “định lại những khuôn phép của thơ xưa” (chữ mượn của Hoài Thanh) như thế hệ các nhà thơ mới 32- 45. Hơn thế, với họ, làm thơ chính là dùng cây búa của Nietzsche để đập vỡ những ý niệm, định nghĩa quen thuộc, giải phóng thơ ra khỏi những khuôn khổ đã định hình.
Biểu hiện của tinh thần Nietzsche ấy trong thơ trẻ hiện nay có nhiều vẻ. Đó là hành động của nhóm Mở Miệng dám biến những điển phạm thơ ca thành biếm hoạ. Sự phạm thượng đó, thực chất, phản ánh một ý thức muốn kháng cự lại sự đè bóng của những giá trị quá khứ lên hiện tại. Nhưng trước khi hạ bệ những tượng đài thơ ca ấy, Mở Miệng đã đem chính mình ra để giễu nhại, phủ định. “Sáo chộn chong ngày” của Bùi Chát đã làm biến dạng chính những bài thơ tự do của mình thành những bài rap ngọng. Từ thơ tự do đến thứ thơ rap ngọng kiểu “Sáo chộn chong ngày”, thơ “xác ướp” hay gần đây là thứ thơ ready – made của thời đại quảng cáo, có thể thấy hành trình của Mở Miệng không muốn dừng chân lâu tại một điểm nào đó. Họ là những kẻ ham chơi và dễ chán, bởi vậy luôn cố tìm ra những trò chơi ngôn từ mới, trước hết như một cách tự làm thoả mãn chính mình.
Một biểu hiện khác, cũng mang một tinh thần giải thiêng triệt để, là hành động tôn xưng cái vô nghĩa, cái nhảm nhí trong thơ. Họ say sưa tìm cách làm cho ngôn từ thơ trượt nghĩa, họ thả cửa để ngôn ngữ tục tĩu tràn vào. Với họ, làm thơ tức là phản thơ: phản thẩm mỹ, phản chuẩn mực, phản quy phạm… Sự nổi loạn ấy là phản ứng trước một thực tế mà thiết nghĩ, đã đến lúc người ta không thể không nhìn thẳng vào nó: tình trạng tha hóa của rất nhiều những giá trị trong đời sống hiện nay. Có lẽ cần phải bình tĩnh phân tích, suy ngẫm về lý do dẫn đến phản ứng nổi loạn này hơn là giận dữ, đưa ngay ra những lời kết án về nó.
Không có một tiền định nào là bắt buộc đối với người làm thơ, không có định nghĩa, khuôn khổ thơ nào có sẵn trước bài thơ. Làm thơ chính là sự sáng tạo ra một ý niệm mới về thơ, trình bày những khả thể mới của thơ. Thơ trẻ hậu Đổi Mới đang dần hình thành một xu hướng đa nguyên hoá những quan niệm về thơ mà điểm chung của những quan niệm ấy là sự khước từ những định nghĩa, những thang giá trị đã có. Người ta không thể bắt đầu sáng tạo nếu không dám đập vỡ những quy phạm rắn chắc trước mặt mình.
Những nhát búa của thơ trẻ hậu Đổi Mới đang làm cho cả một truyền thống thi ca tổn thương và có lẽ đó là những tổn thương nghiêm trọng nhất của thơ Việt Nam sau 30 năm từ khi chiến tranh kết thúc. Có thể nói, sau Nhân Văn, sau Sáng Tạo, đến những năm đầu thế kỷ này, ta mới lại chứng kiến có một nhóm những người làm thơ trẻ dám liều lĩnh đục phá bức tường thành thơ ca vốn rất kiên cố của “chốn nước non lặng lẽ này” ( lại mượn chữ của Hoài Thanh). Khí thế đập phá xem chừng vẫn còn đương hăng hái. Nhưng đập phá liệu đã phải là mục đích cao nhất của sáng tạo thơ ca?
Quan sát cảnh tượng thơ ca những năm hậu Đổi Mới này, người viết không khỏi nhớ đến một bài viết của Herman Hesse bình luận về thơ Đức sau Thế chiến thứ nhất. Ở bài viết ấy, Hesse nói: “Tôi không tin là thơ Đức sẽ phục hồi nhanh chóng” sau những chấn thương của thời đại cũng như những đập phá mà thơ trẻ đang thực hiện. Ông cũng nói rằng, còn có điều ý nghĩa hơn nhiều so với hành động đập phá: “Còn khoa phân tâm học mới mẻ mà Dostojevski và Nietzsche là tiền bối và Freud là kiến trúc sư đầu tiên sẽ dạy cho thế hệ trẻ này, rằng việc giải phóng nhân cách và ca tụng bản năng mới chỉ là đoạn xuất phát của một nẻo đường, rằng mọi tự do cá nhân đều nhàm và bé nhỏ truớc cái tự do cao nhất của mỗi người: đầy ý thức và hân hoan coi mình là một mảnh của nhân loại, và đem những năng lực được giải phóng mà phục vụ nhân loại ấy.” 5
Thơ Việt cũng còn lâu mới phục hồi được. Và người viết bài này chỉ muốn khẳng định một cách dè dặt rằng: đừng vội xem đấy lại là một nỗi thất vọng nữa của chúng ta, những người đọc thơ ít ỏi còn lại./.
8/2005.
N.H
Chú thích.
1. “Thơ Việt Nam đang chờ phiên đổi gác”, Hoàng Hưng, Báo Lao Động số Tết Giáp Tuất, 1994, đăng lại trên website: www.talawas.org
2. Mượn ý của Phan Huyền Thư trong bài “Xin lỗi, nếu thơ tôi không dành cho bạn”, đăng trên tạp chí Tia Sáng số 1/4/2002
3. “Nhìn lại những bước đi. Lắng nghe những tiếng nói”, Lã Nguyên. Nguồn: www.talawas.org
4. Ý kiến của nhà thơ Phạm Sỹ Sáu trong cuộc trao đổi “Về thế hệ nhà thơ trẻ hiện nay” đăng trên báo Thể thao –Văn hoá, số 80, ngày 5/8/2005.
5. “Tôi không tin là thơ Đức sẽ phục hồi nhanh chóng”, Herman Hesse, Phạm Thị Hoài dịch. Nguồn: www.talawas.org
Tuesday, November 21, 2006
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment